Những năm qua, nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 7 năm 2006 về phát triển ngành nghề nông thôn, cấp ủy, chính quyền tỉnh Bình Thuận đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, địa phương thực hiện việc phát triển ngành nghề nông thôn và bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh.
Đến cuối năm 2019, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 10.146 cơ sở ngành nghề nông thôn đang hoạt động với 50.351 lao động tham gia vào các nhóm ngành nghề chính như sản xuất gạch ngói, làm mía đường, bánh tráng, dệt thổ cẩm, gốm gọ, chế biến hải sản, nước mắm, mây tre đan, chế biến gỗ và lâm sản... Trong đó, chế biến nông lâm thủy sản có 2.451 cơ sở; vật liệu xây dựng, đồ gỗ, đan lát, cơ khí 2.609 cơ sở; thủ công mỹ nghệ 21 cơ sở; cây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh 68 cơ sở; xây dựng, vận tải, sửa xe 4.993 cơ sở; đào tạo nghề 4 cơ sở. Tổ chức hoạt động trong các loại hình sản xuất gồm: 278 doanh nghiệp (tư nhân, nhà nước); 187 công ty TNHH; 63 hợp tác xã, tổ hợp tác; 9.618 hộ gia đình (chiếm phần lớn trong tổng số cơ sở hoạt động ngành nghề nông thôn).
Kết quả công tác phát triển ngành nghề nông thôn đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo thêm việc làm, đem lại thu nhập ổn định cho người lao động từ 4 đến 5 triệu đồng/tháng, góp phần giảm nghèo cho người dân khu vực nông thôn; tận dụng được nguồn nguyên liệu tại chỗ để tạo ra hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống (gốm gọ, nghề làm bánh tráng, mây tre đan, dệt thổ cẩm, chế biến hải sản, sản xuất muối, điêu khắc gỗ...) đã góp phần tích cực trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, xây dựng môi trường du lịch văn hóa, quảng bá du lịch, thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, thu hút đầu tư trong lĩnh vực sản xuất của làng nghề. Nổi bật như: Làng nghề bánh tráng Phú Long (Hàm Thuận Bắc) có 45 hộ làm nghề; Làng nghề bánh tráng Chợ Lầu (Bắc Bình) có trên 60 lò sản xuất bánh tráng, giải quyết khoảng 140 lao động thường xuyên; Làng nghề gốm gọ Bình Đức (đồng bào Chăm ở Bắc Bình) có 67 hộ/150 lao động; Làng nghề mây tre đan xã Đông Hà (Đức Linh) sản lượng hàng năm đạt khoảng 130.000 sản phẩm các loại, giải quyết việc làm thường xuyên cho trên 500 lao động…
Một số hình ảnh về Làng nghề bánh tráng Phú Long (Ảnh: dulichbinhthuan.com.vn)
Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề còn một số hạn chế như: sử dụng máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, sản phẩm kém hấp dẫn, mẫu mã lỗi thời, giá thành cao do làm thủ công, sức cạnh tranh kém; người dân không mặn mà với nghề truyền thống do mức thu nhập thấp so với các doanh nghiệp và các nghề phi nông nghiệp khác dẫn đến một số làng nghề phải giải thể hoặc chuyển đổi công năng; công tác quản lý nhà nước đối với các làng nghề tại một số địa phương còn thiếu chặt chẽ; việc di dời các cơ sở làng nghề ra khu tập trung còn gặp nhiều khó khăn; công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi phương thức sản xuất mới chưa thực sự hiệu quả.
Được biết, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã đề ra một số giải pháp chủ yếu để phát triển ngành nghề nông thôn và bảo tồn, phát triển làng nghề giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030, cụ thể: (1) Kịp thời cụ thể hóa, triển khai thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn của Trung ương và của tỉnh phù hợp với tình hình thực tế của địa phương (Chính sách tài chính, tín dụng, thuế, đất đai, khoa học công nghệ, lao động, đào tạo…). (2) Tạo điều kiện hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn được tiếp cận các chính sách khuyến khích, hỗ trợ về đào tạo, tập huấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, chính sách thuế, vay vốn, đào tạo, dạy nghề... (3) Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, từng bước đổi mới công nghệ trong sản xuất, ưu tiên cho các lĩnh vực bảo quản, chế biến nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong các làng nghề tham gia nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm. (4) Khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp đầu tư vào ngành nghề nông nghiệp, nông thôn (hệ thống xử lý môi trường, nước thải, khí thải…); tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất nâng cấp, đầu tư công nghệ mới. (5) Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với công tác phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn; trong đó, tập trung kêu gọi, thu hút đầu tư vào các sản phẩm lợi thế của tỉnh; thúc đẩy hoạt động giao lưu kinh tế, xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu; đẩy mạnh công tác truyền thông về bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương; khôi phục và phát triển các các làng nghề, nghề truyền thống, phát triển thêm nghề mới phù hợp với từng địa phương.
Hy vọng với những giải pháp mang tính đồng bộ, hỗ trợ thúc đẩy các ngành nghề ở nông thôn, làng nghề truyền thống như trên sẽ góp phần đa dạng hóa sản phẩm ngành nghề; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân nhất là vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.